ền gồm có thượng điện, trung điện và hạ điện. Toà thượng điện có 3 gian, gian bên trái thờ Song Đồng Ngọc Nữ, gian bên phải thờ Thái bảo Phúc Quận Công và Phụ quốc Thượng tướng quân. Gian chính giữa thờ một danh tướng nhà Lê, gốc ở tỉnh Nghệ An được tôn vinh thành Thái uý Vĩ quốc công - Đức thánh Hoàng Mười. Ông trở thành vị thần chính thờ ở đền.

Tích thứ hai: Ông Hoàng Mười giáng trần làm tướng Lê Khôi

Có một tích khác kể rằng, Ông Hoàng Mười đã hiện thân làm viên tướng Lê Khôi, mà một khai quốc công thần nhà Lê Sơ, là một trong những tướng lĩnh danh tiếng lẫy lừng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tài liệu ghi lại rằng, tướng Lê Khôi vốn là cháu của vua Lê Lợi, ông được quản lý và trấn giữ vùng Hóa Châu. Ông đã dốc toàn tâm toàn sức giúp người dân nơi đây có một cuộc sống ấm no, ngoài ra ông còn dẹp được quân Bế Khắc Triệu, quân Chiêm Thành…và rất nhiều công lao to lớn khác.

Trong trận ải Khả Lưu, tướng Lê Khôi đã bắt sống được đô đốc quân địc là Chu Kiệt, trảm tướng Hoàng Thành. Ông cùng Phạm Vấn và Lê Sát công phá giặc Minh xâm lược ở thành Xương Giang, cùng lúc bắt sống Hoàng Phúc và Thôi Tụ, bình định giặc Ngô và giành lại Đông Đô.

Thuận Thiên thứ nhất (1428), ông đã được phong Bảo Chính công thần nhập nội thiếu úy.

Thuận Thiên thứ hai, ông được khắc biển công thần, được xếp hàng thứ hai trong bảng Đình Thượng hầu thập tứ nhân.

Thuận Thiên thứ ba (1430) Lê Thái Tổ phái ông đi trấn giữ vùng Thuận Hóa vì có giặc Man quấy nhiễu. Khi tới đây ông đã hướng dẫn người dân làm nông, cày cấy, huấn luyện quân sĩ ngày đêm, giữ được bờ cõi biên cương đất nước. Dùng nhân đức cai quản, đánh trận bắt được giặc không những xử phạt ông còn đối đãi rất tử tế sau đó thả về. Chính vì vậy giặc Chiêm khi nghe tên vừa sợ vừa mến tài năng đức độ của ông. Mỗi lần sứ Chiêm ra Bắc đều thăm ông. Cũng trong năm đó, bạo loạn ở Thanh Lâm, Thái Nguyên do Bế Khắc Triệu, Nông Đức Thái cầm đầu cũng do ông cầm binh cùng Lê Thái Tổ dẹp loạn. Sau đó ông được vua ban cho kim phù và áo bào.

Thuận Thiên thứ sáu, vua lâm trọng bệnh bèn gọi Lê Khôi tham khảo ý kiến về việc truyền lại ngôi cho Nguyên Long. Sau đó ông một lòng phò tá giúp vua Lê Nguyên Long (tức Lê Thái Tông) quản việc nước.

Thiệu Bình thứ tư (1437) vua Lê Thái Tông cho ông làm Nhập nội tư mã, tham gia việc chính sự, cai quản việc quân ở đạo Hải Tây nay thuộc tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An.

Năm Bình Thiệu thứ sáu (1439), Lê Khôi đánh Ai Lao đã bắt được tướng Đạo Mông.

Bảo Đại thứ nhất (1440), đánh Thuận Hóa.

Bảo Đại thứ hai, bắt tù trưởng Man Nghiễn đầu hàng, Thuận Hóa quy phục. Nhờ công lao này mà ông được phong Nhập nội đô đốc. Tất cả những việc chính sự to nhỏ vua đều hỏi qua ý kiến ông trước rồi mới đưa ra quyết định.

Về sau, vì việc cá nhân mà ông bị cho bãi chức về quê. Ông trở về quê sống cuộc sống an nhàn ma không hề oán trách.

Khi vua Lê Nhân Tông kế ngôi vào năm 1448, vua đã mời ông quay trở lại làm quan làm Nhập nội thiếu uy, cai quản công việc tại phủ Nghệ An.

Sử ghi lại rằng, khi Lê Khôi trấn giữ Nghệ An, dân chúng đón tiếp ông hai bên đường chật cứng. Sau vài năm nhận chức, tiếng thơm ca tụng ông đã được lan truyền từ khắp thành thị đến xóm ngõ nơi đây. Ông là người bình dị nên được nhân dân khắp vùng yêu mến và đặt trọn niềm tin.

Thái Hòa thứ hai (1449), chúa Bí Cái của Chiêm Thành đã đem toàn quân hòng chiếm thành Châu Hóa.

Sau đó tới năm Thái Hòa thứ ba, lại tiếp tục đánh An Dung cũng thuộc huyện Châu Hóa. Vua Lê Nhân Tông đã sai quan tư đồ Lê Thận (Nguyễn Thận), đô đốc Lê Xí (Nguyễn Xí) và Lê Khôi đi dẹp loạn. Không địch lại ba vị tướng, quân Chiêm Thành đã rút chạy về nước. Vua đã phong cho Lê Khôi là Nhập nội tham dự việc quan trọng triều đình nhưng vẫn tạm thời trấn giữ Nghệ An.

Thái Hóa thứ tư (1451), vua Lê nhân Tông lệnh cho Lê Khả dẹp loạn phương Nam, Lê Khôi đã đem quân bản bộ thăm dò trước. Tướng giặc sau khi biết ông đến liền sang hỏi: “có phải Tư Mã tới không?”. Ông liền tháo mũ cho giặc thấy. Sau khi thấy ông, tất cả giặc đều xuống ngựa xin hàng. Quân Lê Khôi đi tới đâu giặc không còn một mống tới đó. Lần đó ông đánh tới thành Đồ Bàn, bắt sống Bí Cái rồi mới lui quân.

Khi quay trở lại, ông lâm trọng bệnh và qua đời ở núi Long Ngâm gần cửa biển Nam Giới thuộc Hà Tĩnh ngày nay. Ba quân đều kêu khóc thước xót cho ông, vua sau khi nghe tin đã bỏ triều ba ngày sai quan đến phúng điếu.

Một số tài liệu cổ cũng như ghi chép ở Thọ Xuân cũng ghi rằng, người dân thuộc Hoan Châu Nghệ An lúc đó vô cùng thương tiếc ông nên đã lập miếu thờ phụng nhằm tưởng nhớ ông.

Đền Ông Hoàng Mười có mở của không?

Đền thờ chính Ông Hoàng Mười ở Nghệ An mở cửa tất cả các ngày trong tuần. Nếu bạn muốn chắc chắn có thể gọi qua số điện thoại của quản lý đền: 098.615.3186 để có thể hỏi rõ chi tiết cụ thể.

Ngày tiệc chính của Ông Hoàng Mười là ngày 10 tháng 10 âm lịch hằng năm. Vào ngày này, những du khách thập phương, con nhang đệ tử khắp mọi nơi đều nô nức về để chiêm bái cửa đền ông một cách tấp nập.

Ngoài ra vào ngày tiệc chính của ông, xung quanh đền thờ Ông Hoàng Mười ban quản lý địa phương thường tổ chức một số các lễ hội, hoạt động quần chúng và tổ chức các trò chơi dân gian như đua thuyền, đá gà, thả hoa đăng…

Tại sao có 2 đền Ông Hoàng Mười?

Do khi xưa thuyền Ông Hoàng Mười chìm ở trên dòng sông Lam, một bên là Nghệ An, một bên là Hà Tĩnh nên nhân dân cả hai phía đều lập đền thờ ông. Đền ở Hà Tĩnh chỉ là đền thờ vọng còn đền chính vẫn là đền ở bên kia bờ Nghệ An.

Mộ Ông Hoàng Mười nằm trong khuôn viên đền thờ Ông ở Nghệ An, phía sau núi Quyết, gần cầu Bến Thủy bây giờ.

Sắm lễ Ông Hoàng Mười cần chú ý gì?

Đồ lễ dâng lên Ông Hoàng Mười thường có những vật phẩm như: xôi, gà, chai rượu (kèm 5 chén), nước lọc, tiền, hương nhang. Ngoài ra còn có thêm trầu cau, sớ, 5 dây vàng quan, 1 dây vàng trắng, hoa tươi, quả ngọt và Oản lễ…

Có thể tham khảo thêm các sản phẩm Oản lễ Ông Hoàng Mười: TẠI ĐÂY

Dưới đây là hai mẫu văn khấn Ông Hoàng Mười dành cho những ai mới đi lễ Ông có thể tham khảo:

Trên đây là những chia sẻ về thông tin cũng như kinh nghiệm khi đi lễ Ông Hoàng Mười mà Oản Tài Lộc An Chi đem tới cho các bạn tham khảo. Hi vọng những thông tin trên đã giải đáp được phần nào những câu hỏi của các bạn về Ông Hoàng Mười Nghệ An.

Ông Hoàng Báo Đông Cuông là ai?Theo các tài liệu kể lại rằng Ông Hoàng [...]

Bà Chúa Vực tương truyền chính là hiện thân của Chúa Thoải Phủ thuộc hệ [...]

Nằm kề bên dòng sông Kim Ngưu đoạn đường Tam Trinh thuộc Quận Hoàng Mai, [...]

Đền ông Hoàng Mười (xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An) nằm ở vị trí cảnh quan đẹp với phong cảnh non xanh nước biếc hữu tình. Trước mặt là dòng sông Lam như một dải lụa xanh trải rộng, ôm ấp quanh Đền là sông Cồn Mộc quanh co, uốn khúc. Phía sau, bên kia sông Cồn Mộc là núi Dũng Quyết và Phượng Hoàng Trung Đô với những dấu tích lịch sử.

Chính cảnh quan thiên nhiên của vùng sông nước, mây núi vốn được coi là một trong những đại danh thắng ở hạ lưu sông Lam đã tạo nên cảm giác vô cùng thoải mái cho du khách khi đến đền chiêm bái, vãn cảnh. Ngoài cảnh đẹp kỳ thú, từ lâu, đền ông Hoàng Mười đã nổi tiếng linh thiêng và có vị trí hết sức quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân.

Tương truyền ngôi đền được xây dựng từ thời Hậu Lê (1634), thờ các vị phúc thần trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ của Việt Nam. Trong đó, nhân vật được thờ chính là ông Hoàng Mười. Ngoài ra trong Đền còn thờ các vị phúc thần: Lê Khôi, Quận công Trịnh Trung, Song Đồng Ngọc Nữ và hệ thống đạo Mẫu tứ phủ, mà người đứng đầu là Thánh Mẫu Liễu Hạnh.

Theo truyền thuyết dân gian, ông Hoàng Mười (còn gọi là ông Mười Nghệ An), là con của Vua cha Bát Hải Động Đình - thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh của Vua cha, Ông giáng trần để giúp dân, phù đời, được giao trọng trách trấn thủ Nghệ An về mặt tâm linh, được đặc cách toàn quyền kiểm soát khâm sai ở xứ Nghệ.

Tại đền còn lưu truyền sự tích về người như: Quan Hoàng Mười là người văn võ toàn tài, có công dựng nền thịnh trị, ổn định cuộc sống cho nhân dân quanh vùng. Đặc biệt, ngài luôn quan tâm, giúp đỡ những người dân nghèo khó; là một vị tướng tài có công lớn trong cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn. Ngài bị thương nặng, phi ngựa về đến quê nhà thì mất, dân làng chưa kịp mai táng, mối đã đùn đất lên quanh thi hài thành một ngôi mộ. Triều đình và nhân dân thương tiếc lập đền thờ bên cạnh ngôi mộ để làm nơi tưởng niệm Ngài. Công lao của Quan Hoàng Mười đã được các triều đại phong kiến ghi nhận và ban các thần hiệu “Khâm Sai Tiết Chế Nghệ An, Quảng Nam, Thuận Hóa Đẳng Xứ, Kiêm Thủy Bộ Chư Dinh, Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, Thái Úy, Vị Quốc Công”.

Theo tìm hiểu, đền ông Hoàng Mười được xây dựng từ thời Hậu Lê (thế kỷ XVII) tại làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh. Trải qua lịch sử, đền bị phá huỷ. Năm 1995 đền được xây dựng theo quy mô truyền thống, gồm tam quan, tắc môn, đài trung thiên, lầu cô, lầu cậu. Khu đền chính gồm ba tòa điện, là Thượng điện, Trung điện và Hạ điện. Công trình này mang kiến trúc đền chùa thời nhà Nguyễn. Vật liệu dựng đền sau này đều làm bằng gỗ, được chạm trổ công phu với các hoạ tiết long, lân, quy, phụng.

Dù trải qua nhiều thăng trầm của thời gian và qua nhiều đợt trùng tu, tôn tạo, đền vẫn lưu giữ được kiến trúc nghệ thuật đặc sắc, phản ánh tư duy sáng tạo, sự tài hoa của nghệ nhân xứ Nghệ thời bấy giờ.

Hiện tại đền cũng đang lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật đồ tế khí quý hiếm; trong đó có 21 sắc phong, bản thần tích chữ Hán, hệ thống tượng pháp có giá trị lịch sử, thẩm mỹ.

Lan tỏa giá trị văn hóa phi vật thể quốc gia

Các cao niên trong xã cho biết, Lễ hội Đền ông Hoàng Mười được hình thành và tồn tại với lịch sử của Đền. Trước đây, Lễ hội đền ông Hoàng Mười được tổ chức vào ngày 15/3 (âm lịch) hàng năm.

Từ năm 1995, sau khi ngôi đền được phục dựng lại, Lễ hội được chuyển vào ngày 9, 10/10 (âm lịch) hàng năm - ngày hóa của Quan Hoàng Mười, dịp tết cơm mới/tết Trùng thập/tết Hạ nguyên, ngày lễ của những người thực hành nghi lễ hầu đồng; ngày mà người dân tin là ngày tròn trịa, viên mãn, mang lại nhiều điều tốt đẹp, còn ngày 15/3 hàng năm chỉ tổ chức thắp hương, dâng lễ.

Lễ hội đền ông Hoàng Mười được tổ chức theo các nghi lễ truyền thống trang nghiêm, gồm: Lễ khai quang/mộc dục, Lễ rước sắc, Lễ yết cáo, Lễ đại tế, Lễ tạ.

Lễ rước sắc từ nhà thờ họ Nguyễn về đền ông Hoàng Mười, diễn ra vào chiều ngày 9, do từ thời Phong kiến, sắc phong thần của đền được giao cho dòng họ Nguyễn trông coi, lưu giữ. Khi làng tổ chức hội thì rước sắc ra đền, xong hội lại rước về nhà thờ.

Nét đặc sắc của Lễ hội đền ông Hoàng Mười là các hoạt động được gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu, đó là diễn xướng nghi lễ hầu đồng, đáp ứng nhu cầu thực hành tín ngưỡng giao tiếp, biểu đạt những ước muốn, khát vọng của du khách với thần linh (tín ngưỡng thờ mẫu một di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại đã được UNESCO công nhận).

Ngoài việc tổ chức các hoạt động văn hóa, tâm linh trong các dịp lễ, Tết, vọng... hàng tháng thì lễ giỗ ông Hoàng Mười ở phần hội được tổ chức quy mô như bóng chuyền Nam, bóng chuyền nữ đến từ 18 xã, thị trấn thì còn có hoạt động đua thuyền trên sông Mộc với sự sự tham gia của vận động viên 3 xã Xuân Lam, Long Xá và xã Hưng Lợi thì còn có sự tham gia của các huyện bạn như Đô Lương, Nam Đàn và Thị xã Hoàng Mai.

Để tiếp tục bảo tồn, phát huy, lan tỏa giá trị Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia Lễ hội đền ông Hoàng Mười, theo chia sẻ của bà Hoàng Thị Hoài Thanh (Trưởng phòng Văn hóa - Thông tin huyện Hưng Nguyên, Trưởng ban Quản lý di tích đền ông Hoàng Mười), huyện Hưng Nguyên đã tập trung đầu tư mở rộng, xây dựng và nâng cấp các hạng mục từ khu vực tâm linh đến khu dịch vụ bằng nguồn công đức và nguồn xã hội hoá hơn 110 tỷ đồng.

Huyện cũng xác định đây là điểm văn hóa tâm linh quan trọng của tỉnh, từ đó đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tổ chức hoạt động và quản lý nhằm phát huy tốt giá trị của di tích. Cùng với đó, các hoạt động Lễ hội đền ông Hoàng Mười được huyện Hưng Nguyên nghiên cứu đổi mới theo từng năm nhằm dần nâng tầm quy mô đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá tâm linh, thưởng ngoạn của nhân dân địa phương và du khách thập phương.

Với sự ngưỡng mộ của nhân dân đối với quan Hoàng Mười và sự đặc sắc về cảnh quan môi trường cũng như giá trị lịch sử văn hóa tiêu biểu, đền ông Hoàng Mười là điểm du lịch văn hóa tâm linh của nhân dân, của du khách thập phương trong hành trình tìm về xứ Nghệ. Bảo tồn, tôn tạo và mở rộng di tích đền Ông Hoàng Mười để xứng tầm Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia là nhiệm vụ đã và đang được Hưng Nguyên quan tâm, góp phần gìn giữ, phát triển bản sắc văn hóa dân tộc.