Đất nước thân yêu của chúng ta đã trải qua hàng triệu năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Để rồi, giờ đây, khi chiến tranh đã lùi xa nhưng những dấu ấn của lịch sử, của những chiến công hào hùng, của nền văn hóa truyền thống dường như vẫn còn mãi in dấu nơi những di tích lịch sử ở khắp cả nước. Và về với Hà Nội – thủ đô của cả nước, chúng ta sẽ nhớ ngay tới Văn Miếu Quốc Tử Giám – một trong số những di tích lịch sử nổi tiếng ở nước ta.

Top 100 Thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám (hay nhất)

Tổng hợp các bài văn Thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám - mẫu 11

Văn Miếu Quốc Tử Giám di tích lịch sử cấp quốc gia đây cũng là trường đại học đầu tiên của Việt Nam lưu giữ những con người xuất chúng của nền giáo dục nước nhà. Khi ghé thăm Hà Nội bạn nên ghé thăm di tích lịch sử này.

Văn Miếu được xây dựng từ thời của vua Lý Thánh Tông vào năm 1010, nơi này chọn là địa điểm học tập của các thái tử trong thời Lý. Năm 1076, vua Lý Nhân Tông lập trường Quốc Tử Giám và đây cũng là trường đại học đầu tiên của nước ta từ thời phong kiến.

Văn Miếu – Quốc Tử Giám di tích văn hóa – lịch sử với quy mô lớn và ghi dấu nhiều thành tích đáng tự hào của nước ta. Di tích có diện tích hơn 50.000m2 gồm : Hồ Văn, vườn giám, nội tự được bao quanh bằng tường gạch vồ. Phía trước cổng chính là tứ trụ, hai bên tứ trụ có hai bia “ Hạ mã”. Nội tự được chia làm năm khu vực, mỗi khu vực được phân chia là nơi dựng bia và thờ bài vị của nhiều học giả thành danh trên khắp cả nước. Họ đều đỗ đạt và có nhiều thành tích lưu danh trong lịch sử nước nhà.

Khi đến khu bia đá, bạn có thể tìm thấy nhiều tên tuổi danh nhân trong các sách sử Việt nam như nhà sử học Ngô Sĩ Liên, Lê Qúy Đôn,… các bia đá ghi lại thân thế và công lao của các công thần Việt Nam trong từng thời kì khác nhau. Đây được xem là những giá trị vô giá được ghi nhận đã làm nên sự đa dạng về truyền thống văn hóa, giáo dục của nước nhà. Trên mỗi bia đá các hoa văn và văn tự còn rõ chữ. Chữ viết và phong cách trang trí mỗi dáng bia, đầu rùa đều mang dấu ấn riêng của từng thời đại.

Khi đến thăm Quốc Tử giám phải nhắc đến chiếc chuông Bích Ung do Nguyễn Nghiêm đúc năm 1768, chiếc chuông lớn mang nhiều giá trị lịch sử. Văn Miếu Quốc tử giám là nơi đào tạo nhân tài cho giáo dục qua nhiều thế hệ tiếp theo như nhà Lê, Mạc Trần, Nguyễn…qua các thời đại trong lịch sử phong kiến đều quan trọng việc đào tạo những con người ưu tú cho đất nước chính vì vậy Văn Miếu Quốc tử giám tiếp tục duy trì và phát triển. Ngày nay, những sĩ tử trước khi tham gia các kì thi quan trọng đều đến đây để mong được sự may mắn, đỗ đạt thành công.

Vào tháng 3/2010 đã có 82 tấm bia Tiến sĩ triều Lê – Mạc tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám được tổ chức UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Điều này giúp bảo tồn và lưu trữ những giá trị văn hóa, tinh thần đến con cháu đời sau.

Văn Miếu Quốc Tử Giám không chỉ là di tích lịch sử quan trọng của nước ta mà còn biểu trưng cho truyền thống hiếu học, tinh hoa văn hóa dân tộc Việt Nam, đã và đang được nhà nước tu bổ, gìn giữ đến thế hệ mai sau.

Thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám - mẫu 14

Gắn liền với chiều dài ngàn năm văn hiến của thu đô Hà Nội, ta không thể không nhắc đến Văn Miếu – Quốc Tử Giám – trường đại học đầu tiên của nước ta, là biểu tượng cho truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam ta.

Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xây dựng vào thế kỷ 11 dưới thời Lý, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long. Suốt hơn 800 năm, Văn Miếu- Quốc Tử Giám đã đào tạo ra nhiều nhân tài cho từng thời đại, người đỗ Tiến sĩ qua các khoa thi thời Lê sơ, thời Mạc và thời Lê Trung Hưng được dựng bia để tôn vinh các bậc hiền tài theo quan điểm Hiền tài là nguyên khí quốc gia.

Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, hiện nay Văn Miếu- Quốc Tử Giám đã có nhiều thay đổi về mặt kiến trúc so với thời nhà Lý với lối kiến trúc phương Đông, ảnh hưởng đậm nét bởi Nho giáo và Phật giáo. Nơi đây nằm giữa bốn dãy phố cổng chính là phố Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc là phố Nguyễn Thái Học, phía Tây là phố Tôn Đức Thắng, phía Đông là phố Văn Miếu. Văn miếu bao gồm hai di tích chính là Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy đầu tiên của trường học.

Ban đầu nơi đây chỉ dành cho con vua và các bậc đại quyền quý, sau đã được mở rộng cho người ở cả nước. Toàn bộ kiến trúc Văn Miếu hiện nay đều là kiến trúc thời đầu nhà Nguyễn, khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bằng gạch vồ từ thời Hậu Lê. Hiện nay, quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được chia làm ba khu vực chính: Văn hồ, vườn Giám và khu nội tự. Hồ Văn nằm đối diện với cổng chính của Quốc Tử Giám, đây là một hồ nước trong, quanh bờ cây cối râm mát tạo cho hồ một không khí mát mẻ, thư thái để giải tỏa căng thẳng sau những ngày làm việc, học tập mệt mỏi.

Khu nội tự của Văn Miếu – Quốc Tử Giám được ngăn cách với Vườn Giám và không gian bên ngoài bởi bức tường gạch vồ, được chia làm năm lớp, mỗi lớp được giới hạn bằng tường gạch và các cửa thông nhau: một cửa chính giữa và hai cửa phụ hai bên với các kiến trúc chủ thể là: cổng Văn Miếu, cổng Đại Trung, Khuê Văn các, cổng Đại Thành, khu điện thờ, cổng Thái Học và kết thúc là khu Thái Học.

Trước khi khám phá kiến trúc bên trong Văn Miếu – Quốc Tử Giám, ta phải bước qua Văn Miếu môn, tức cổng tam quan ngoài cùng, cổng có ba cửa, cửa giữa cao to và xây 2 tầng. Từ Văn Miếu môn vào là khu Nhập Đạo với ba cửa chính theo thứ tự từ trái sang phải là Đại Trung, Thành Đức và Đại Tài.

Tiếp đến là Khuê Văn các với kiến trúc một lầu vuông tám mái, bao gồm bốn mái thượng và bốn mái hạ, cao gần chín thước được xây dựng dưới thời Nguyễn, là nơi khi xưa dùng để họp bình các bài văn hay của các sĩ tử đỗ kỳ thi hội. Khu tiếp theo là giếng Thiên Quang và hai vườn bia Tiến sĩ, nơi đây có 82 tấm bia Tiến sĩ hình con rùa bằng đá xanh theo quan niệm của ông cha ta rùa chính là thần Kim Quy biểu tượng cho tinh thần, sức mạnh, sự đùm bọc đoàn kết của dân tộc. Kế tiếp khu tiến sĩ và giếng Thiên Quang là Đại Thành môn với kiến trúc ba gian và hai hàng cột hiên trước sau và một hàng cột giữa.

Qua Đại Thành môn là đến khu điện thờ, đây là khu vực chính của di tích Quốc Tử Giám, là nơi thờ Khổng Tử, Chu Công, Tứ Phối, Thất thập nhị hiền v.v… và cũng là nơi giảng dạy của trường giám thời xưa. Khu Khải Thánh hay còn gọi là khu Thái học là khu sau cùng của di tích, không chỉ là nơi thờ cha mẹ của Khổng Tử mà còn là nơi rèn đúc nhân tài cho nhiều triều đại.

Nhà Tiền Đường, Hậu Đường là công trình mới nằm trong công trình trùng tu khu Thái Học trong đó Tiền Đường là nơi trưng bày truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo ngày nay, đồng thời cũng là nơi tổ chức các cuộc hội thảo khoa học, văn hoá nghệ thuật dân tộc, Hậu Đường là nơi tôn vinh vị danh sư Chu Văn An, tôn vinh nền giáo dục Nho học Việt Nam và tôn vinh những người đã có công xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám.

Không chỉ có ý nghĩa khuyến khích hiền tài giúp nước mà Văn Miếu – Quốc Tử Giám còn là biểu tượng lưu dấu quá trình hình thành và phát triển của tầng lớp trí thức Nho học Việt Nam, những người đã tiếp thu và phát huy xuất sắc tinh hoa của các nền văn minh phương Đông để sáng tạo ra cả kho tàng văn hiến Hán Nôm giàu đậm tinh thần yêu nước và bản sắc dân tộc, nơi đây gắn liền với nhiều nét mộc mạc của thời đại phong kiến, chứa đựng tinh hoa văn hóa qua các triều đại, đóng vai trò sử đá của nền giáo dục khoa cử Việt Nam.

Tuy có không ít sự đổi thay nhưng Văn Miếu – Quốc Tử Giám vẫn giữ nguyên được những nét đẹp truyền thống. Nơi đây mỗi độ tết đến xuân về, hình ảnh cổ xưa lại hiện về qua hình ảnh những ông đồ già với hoạt động xin chữ đầu năm _ nét văn hóa của người Hà Nội. Với những giá trị lịch sử và văn hóa như vậy, Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã trở thành niềm tự hào của người dân thủ đô nói chung và người Việt Nam nói riêng.

Mục lục Văn mẫu | Văn hay lớp 8 theo từng phần: